Hà Nội, Thứ 6, 22/11/2024

Di tích đình Tứ Liên

Chủ nhật, 24/09/2023 | 15:33 | Lượt xem: 1,267

 

GIỚI THIỆU

Đình Tứ Liên trước đây là đình làng Ngoại Châu, từ năm 1993 là đình Tứ Liên. Ngày nay thuộc cụm 4 phường Tứ Liên, quận Tây Hồ.
Căn cứ vào các tư liệu Hán Nôm còn lưu giữ tại đình: Thần tích, sắc phong, văn bia, hoành phi, câu đối… đình Tứ Liên thờ bốn vị thần là: Bảo Trung Đại vương, Minh Khiết Đại vương, Phương Nương Công chúa. Lai lịch các vị thần tóm tắt như sau:
Thời Lý Nam Đế ở Đạo Sơn Nam, phủ Khoái Châu, trang Đồng Lạc có gia đình họ Nguyễn húy là Chương, vợ là Bùi Thị Xuyến. Ông Chương làm nghề y còn vợ làm nghề nông trang hàng ngày lấy đó làm kế sinh nhai. Hai người sống hòa thuận chuyên làm điều thiện. Hàng ngày, ông bà thường cầu trời khấn phật ban cho mình những người con hiếu thảo để giúp đỡ khi tuổi già. Khi ấy vào mùa hè nóng nực, bà Xuyến ra sông của bản trang để tắm gội. Đang tắm bà bỗng thấy bên bờ sông có ba quả trứng rắn: một quả màu xanh, hai quả màu vàng. Bà cho là của quý bèn đem về nhà. Ông Chương thấy vậy cho là điều kỳ lạ đem đặt ở đầu giường, ba ngày sau quả trứng tự nhiên vỡ ra, nước từ ba quả trứng thấm vào người bà. Sau ba tháng bà cảm động và mang thai, đầy tháng bà Xuyến nở ra một cái bọc sinh ra hai người con trai và một người con gái vào ngày 28 tháng 6 năm Mậu Dần. Ba người con đều có dung mạo khác thường: con trai diện mạo sáng sủa, hình dáng quảng đại, con gái má phấn, mắt phượng, mày ngài. Bà sinh con được ba tháng thì không may bị lâm bệnh rồi mất vào ngày 10 tháng 9, ông Chương thấy ba đứa con còn quá thơ dại nên đã tìm hai người phụ nữ là Phạm Thị Thanh và Trần Thị Tích người châu Xuyên Bảo, huyện Từ Liêm để về chăm sóc các con.
Ngày tháng trôi qua khi ba đứa trẻ đã 12 tuổi đi học thì hai bà xin về quê cũ làm ăn, đến tuổi 18 cả ba đều học rất thông minh, văn chương thấu suốt, lúc này ông mới đặt tên cho các con: cậu thứ nhất tên là Bảo, cậu thứ hai tên là Mỹ, cô con gái thứ ba tên là Phương. Năm ấy, họa vô đơn chí ông Chương bị bệnh rồi mất vào ngày 21 tháng 11. Khi ấy ba anh em đến huyện Từ Liêm tìm hai bà mẹ nuôi nhưng không thấy vì hai bà đã qua đời. Sau đó ba vị được một nhà hào phú trong trang là Lê Công Trí nuôi dưỡng. Hai cậu Bảo và Mỹ được tiếp tục ăn học còn cô Phương học nghề canh cửi tàm tang. Một hôm cô Phương ra bãi trồng dâu thì hóa đi về Thủy quốc. Còn hai ông học thành tài, văn võ song toàn không ai sánh kịp.
Đời vua Lê Đại Hành, giặc nhà Tống kéo sang xâm lược nước ta, vua Lê cho quân tiến theo đường thủy đến lăng miếu của bà tự nhiên không tiến lên được, đến nửa đêm được báo mộng bèn làm lễ cầu xin được linh ứng. Nhà vua thắng giặc liền sắc chỉ xây dựng miếu thờ bà. Chín năm sau, giặc Chiêm Thành đem quân sang xâm lược nước ta, nhà vua rất lo lắng khẩn cấp truyền lệnh khắp thiên hạ, người nào có tài dẹp yên giặc Chiêm Thành thì đến sân điện ứng thí. Hai ông lúc ấy nghe được lời cầu tài anh em ta đến triều đình yết kiến Hoàng đế, liền xin đi đánh giặc giúp nước. Nhà vua nhìn thấy hai ông dáng vẻ khôi ngô, tuấn tú, võ nghệ cao cường thì rất vui mừng liền làm lễ bái tướng và nói: “Nay nước nhà gặp họa ngoại xâm, trẫm lệnh cho ngươi thay ta phụng mệnh đi dẹp giặc”.
Hai ông phụng mệnh nhà vua thân chinh chiêu tập ba vạn tinh binh, người ngựa rợp đất, cờ xí ngất trời tiến về bản trang. Ông thứ nhất lấy 30 người ở bản trang làm gia thần, ông thứ hai lấy 80 người làm nội đao thần tướng. Hai ông chia làm hai đạo thủy bộ cùng tiến hành quân thần tốc uy của quân đội rung chuyển trời đất như lá khô trút xuống, thế đại phá như chẻ tre tiến thẳng tới Chiêm Thành, đại phá một trận ở đất bên sông, quân giặc thất trận chạy trốn. Quân ta thắng trận, hai ông về nghỉ ở Đồn binh. Hôm ấy đến nửa đêm bỗng thấy trời đất tối sầm mưa gió nổi lên, sấm chớp rung trời, bỗng có đám mây vàng từ trên trời giáng thẳng đến đồn hai ông như dải lụa vàng. Sau đó hai ông cùng hóa vào ngày 12 tháng 10. Một lát sau trời quang mây tạnh, nhân dân nơi ấy bèn đến xem, bỗng thấy mối đùn lên thành lăng mộ tục gọi là Đổng lăng vua. Nhà vua biết tin vô cùng thương tiếc bậc công thần có công lao to lớn đối với đất nước, trung nghĩa với vua truyền cho nhân dân bản trang lập miếu thờ, ban tặng tiền cho nhân dân cúng tế vào dịp xuân thu, miễn phu phen trong ba năm, bao phong mỹ tự là thượng đẳng phúc thần, phong người anh là Bảo Trung Thượng đẳng phúc thần Đại vương, người em là Minh Khiết Thượng đẳng phúc thần Đại vương.
Như vậy ba vị Bảo Trung, Minh Khiết và Phương Nương đều là thủy thần đã nhân hóa để giúp vua Lý Nam Đế đánh giặc ngoại xâm. Bài vị thứ tư trong cung là thờ phu nhân thần vị chính là thờ Công chúa Từ Hoa - con gái vua Lý Thần Tông xin ra mở trại trồng dâu nuôi tằm ở trang Xuyên Bảo, gọi là trại Tằm Tang. Để ghi nhớ công ơn của công chúa nhân dân tôn làm Thành hoàng làng thờ cúng tại đình Ngoại Châu (Tứ Liên) và chùa Kim Liên.
Kế tục truyền thống chống giặc ngoại xâm, Tứ Liên còn là cơ sở cách mạng kháng chiến thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Trong cuộc chiến đấu quyết tử từ 60 ngày đêm (19/12/1946 - 17/2/1947) bảo vệ Thủ đô, bến sông Tứ Tổng (Tứ Liên) là nơi 1200 cảm tử quân đã rút gọn trong đêm 17 rạng 18/2/1947 lên chiến khu để bảo toàn lực lượng, tiếp tục 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, những chiến sỹ đã qua sông cùng những chiến sỹ tự vệ chèo đò năm ấy đến nay tuy tuổi đã cao nhưng họ vẫn đến thăm nhau vào mỗi dịp giỗ trận 29 tháng giêng hàng năm (âm lịch) và tặng quà cho nhau mỗi khi tết đến xuân về. Những câu chuyện, những cuộc đời giãi dầu bao năm tháng vẫn vui vầy kể cho nhau nghe, cho lớp con cháu nghe những kỷ niệm một thời đã trở thành dấu son trong lịch sử đấu tranh Cách mạng Tháng 8 và những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.
Đình Tứ Liên được xây dựng ở vị trí trung tâm của phường theo hướng tây nhìn ra Hồ Bụng Cá. Đình có diện tích khoảng gần 3000m2, đình tọa lạc ở vị trí cao thoáng được xây trên nền cao 1,2m với các bậc tam cấp bằng đá xanh. Đình có kết cấu chữ đinh gồm 3 gian đại đình và 3 gian hậu cung. Mái đình được lợp ngói ta cấu trúc kiểu 4 mái, ở chính giữa nóc mái đắp nổi hình hai con rồng uốn lượn chầu mặt trời, hai đầu kìm đắp hai đầu rồng chầu vào nhau, các bờ dải đều đắp hình rồng, ở các góc mái đắp thân rồng lá xoắn uốn cong chầu vào giữa. Phía trước là hệ thống cửa bức bàn gỗ lim chạy suốt bảy gian nhà gồm có 58 cánh.
Đại đình là kiến trúc lớn gồm có 6 bộ vì làm theo kiểu vì giá chiêng kẻ nách và bảy hiên. Trong lòng đình gồm có 12 cột cái có đường kính 0,4m, cao 4,4m; 18 cột quân có đường kính 0,3m, cao 3,2m; mái gỗ kiểu kẻ chuyền gồm 6 câu đầu và 6 quá giang; hệ thống hoành rui đều làm bằng gỗ trang trí ở các bộ vì tòa đại đình chủ yếu là bào trơn, kẻ soi.
Hậu cung đình được nối liền với gian giữa của đại đình về phía sau tạo thành kết cấu hình chuôi vồ. Bộ vì kèo trong cùng làm kiểu vì kèo suốt, chủ yếu là bào trơn đóng bén. Trên các cốn nách của hậu cung có trang trí hình đầu rồng và các vân mây hoa lá cách điệu. Để tạo sự uy linh sang trọng, phía trước cửa hậu cung đình có gắn một bức cửa võng chạm thủng đề tài tứ linh: Long, ly, quy, phượng, hoa lá cách điệu. Gian chính giữa ở vị cao trung tâm là một ban thờ trên đó đặt long ngai, bài vị của các vị thần.
Trong đình hiện nay còn lưu giữ khá nhiều hiện vật có giá trị bao gồm: một cuốn thần phả bằng chữ Hán do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm 1572 sao lại vào năm Vĩnh Hựu (1737) ghi công tích của các vị thần. 19 đạo sắc phong (bản gốc) của các đời vua phong cho các vị thần. Trong đó có 12 đạo thời Lê và 6 đạo thời Nguyễn.
Bốn bộ long ngai bài vị:
+ Bảo Trung thượng đẳng phúc thần đại vương thần vị
+ Minh Khiết Thượng đẳng phúc thần đại vương thần vị
+ Ý Hạnh phu nhân tôn công chúa thần vị
+ Phu nhân thần vị
18 đôi câu đối nội dung ca ngợi công đức của các vị thần.
Nằm ở vị trí trung tâm các di tích lịch sử văn hóa của quận Tây Hồ, di tích đình Tứ Liên là một trong những di tích có cảnh quan kiến trúc đẹp, là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh cộng đồng, một điểm thăm quan hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Di tích đã được xếp hạng cấp Thành phố theo Quyết định số 5082/QĐ-UB ngày 13/11/2006./.

TIN LIÊN QUAN

BÌNH CHỌN

Đánh giá thái độ tiếp dân của cán bộ Một Cửa?